Gallery

The World Unseen – Chapter 16

Robert kéo và nhấc cánh cửa gỗ của tầng hầm, Miriam đứng gần đó, quan sát cậu bé đang vật lộn với nó.

“Không phải cậu đã đi xuống dưới đó tuần trước sao?” cô hỏi cậu ta.

“Vâng, thưa bà. Lúc đó nó vẫn còn bình thường”, cậu ta khẳng định. “Để tôi cố gắng thử thưa bà. Chắc là nó bị mắc kẹt do cơn mưa”.

Miriam gật đầu, và đi trở lại vào trong cửa hàng, nơi mà Christina, người gầu gái từ nông trại nhà Weston, vẫn còn đang nhàn nhã tìm kiếm qua những dãy hàng hóa. Mặc dù họ chỉ bán những mặt hàng nhu yếu phẩm cơ bản, nhưng Christina rất háo hức chờ đến hàng tuần để đến đây và luôn nhận ra khi có bất cứ thứ gì mới.

“Tôi có thể giúp cô tìm thứ gì không nhỉ?” Miriam hỏi. Cô liếc nhìn về phía Robert và quan sát khi cậu bé dùng hết sức nặng của mình để kéo cái cửa hầm. Cánh cửa gỗ kêu một tiếng cọt kẹt lớn và từ từ di chuyển hướng lên trên. Miriam mỉm cười.

“Không, không cần lo lắng đâu, thưa bà”, Christina trả lời. “Tôi chỉ cần nhìn mấy loại lụa này thôi. Tôi đang nghĩ đến một bộ váy mới cho những ngày này”.

Miriam gật đầu, hầu như là không nghe thấy. “Cứ thư thả, Christina”, cô nói, và quay lại xem thử Robert làm việc như thế nào.

Trong cái hố vuông đen nằm trên nền đất, chỉ có vài bậc thang đầu tiên được nhìn thấy. Cô nhìn Robert, người đang đứng trên đôi chân của mình ngay rìa của bóng tối bên dưới họ.

“Tôi sẽ xuống dưới đó, thưa bà”, cậu ta nói, chuẩn bị đi xuống nhưng giọng nói của Miriam đã giữ cậu ta lại.

“Không”, cô nói. “Tôi biết tôi đang cần tìm cái gì. Tôi sẽ xuống đó”.

“Nhưng ở dưới đó có rất nhiều nhện, thưa bà”, Robert trả lời, chỉ với một nụ cười mỉm. Miriam xem xét thông tin này trông chốc lát và nhìn cậu bé, người bây giờ đang cười toe toét. “Thỉnh thoảng cũng có rắn nữa”, cậu ta thêm vào.

“Tôi tìm một thùng đựng những cuốn sách”, Miriam nói với cậu ta. “Nhưng cuốn sách mà tôi dùng khi còn trẻ. Chúng là những cuốn tiểu thuyết”, cô nói thêm.

“Tôi biết những cuốn sách”, Robert trả lời. “Tôi có thể tìm chúng”.

Cậu ta nhỏ con và uyển chuyển và trườn xuống dưới các bậc thang chỉ trong vài giây, ngừng lại một chút ở bậc thang cuối cùng trước khi nhảy xuống dưới nền tầng hầm với tiếng huỵch. Cậu ta kiên nhẫn chờ đợi trong chốc lát, cho đến khi đôi mắt điều tiết được trong bóng tối xung quanh cậu. Sau đó cậu đi thẳng tới ngay một chồng thùng giấy không thường được sử dụng tới ở phía sau của tầng hầm trong suố thời gian mà cậu có thể nhớ được.

Ở phía trong cửa hàng, Christina đang rung chuông. Miriam vội vã chạy vào trong cửa hàng và nhìn Christian, người vẫn còn đang cầm cái chuông.

“Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người đã về nhà”, Christina nói, và cười đầy lo lắng.

“Chúng tôi sống ở đây”, Miriam nói, và ngước mắt nhìn lên trần nhà nơi cô có thể nghe được tiếng bước chân của chồng mình. Chẳng cần nghi ngờ thì cũng biết tiếng chuông lớn đã đánh thức anh ta khỏi giấc ngủ trưa của mình. Cô đã nhanh chóng đi nửa đường trên cầu thang, và thấy Omar đang đi ra từ phòng tắm.

“Em xin lỗi”, cô nói. “Em đang ở ngoài với Robert và Christina cứ tiếp tục nhấn chuông”.

Anh ta gật đầu, vẫn còn ngái ngủ.

“Đi ngủ lại đi”, Miriam gọi anh ta với một giọng trầm. “Ngủ thêm một chút, em sẽ gọi anh dậy sớm”.

“Tôi đi lên bây giờ đây”, anh ta cáu kỉnh.

Miriam nhìn anh ta thật khó khăn. “Được rồi”,  cô nói. “Nhưng anh không cần phải vội vã. Cứ từ từ đi”.

Anh ta liếc cô, nghi ngờ vì sự nài nỉ của cô, nhưng cô đã chạy xuống dưới cầu thang.

Cuối cùng Christina cũng đi, và Miriam lần nữa quay lại cái cửa hầm. Trong một vài giây, cái thùng các tông xuất hiện, theo sau đó là cái đầu của Robert. Cậu ta đã đẩy nó lên sàn với một ít nỗ lực, và đưa nó cho Miriam sau khi đã phủi tay qua nó.

“Sách, thưa bà”.

Miriam quỳ xuống và kéo cái thùng để mở nó. Chúng thật là những cuốn sách, mà cô đã mang theo lên tàu từ Ấn Độ và bằng xe tải từ Pretoria.

“Bà đã quên chúng sao, thưa bà?” Robert hỏi, trong khi quan sát Miriam lấy từng cuốn ra khỏi cái thùng, và sờ chúng, từng cuốn một.

“Phải”, cô trả lời. “Cho đến khi có người gợi nhớ cho tôi”.

Cô sắp xếp chúng một cách nhanh chóng, không có thời gian để mở chúng ra xem thử lần cuối chúng được đọc là khi nào. Những hồi ức, và những lần đọc lại, cô sẽ để dành vào một ngày nào đó khi cô lại cô đơn lần nữa trong sự yên tĩnh của đêm khuya. Cô chất chúng xung quanh mình – chắc tất cả phải có đến mười lăm cuốn – và chọn ra cuốn Far From The Madding Crowd (Xa đám đông điên loạn – xuất bản năm 1874 – là cuốn tiểu thuyết thứ tư, thành công đầu tiên của nhà văn Anh Thomas Hardy) và cuốn Jane Eyre (là cuốn tiểu thuyết của văn sĩ Charlotte Brontë, được xuất bản vào năm 1847 dưới bút danh Currer Bell), nhưng cuối cùng ngừng lại ở cuốn Little Woman (được viết bởi tiểu thuyết gia người Mỹ Louisa May Alcott, được xuất bản thành hai tập vào năm 1868 và 1869) mà cô nhớ rất rõ trong khoảng thời gian còn đi học của mình. Khi còn là một cô gái ở trường trung học, cô vẫn thường tưởng tượng mình là nhân vật Jo đầy sôi nổi và độc lập, nhưng bây giờ khi cô nghĩ về nó, nó là một người khác mà cô đã hình dung được trong vai trò đó.

Miriam mang cuốn sách vào trong cửa hàng. Cô có thể nghe tiếng chân của Omar ở trên lầu và cũng biết bọn trẻ sẽ trở về từ trường học bất kì lúc nào. Cô nhẹ nhàng đặt cuốn sách lên quầy, và tìm trong mấy cái ngăn kéo, tìm cái xấp giấy màu nâu và mấy sợi dây buộc. Cô luôn khao khát cái xấp giấy gói quà vào dịp lễ hội, nhưng cô biết rằng Omar sẽ phát hiện nếu như cô sử dụng một ít. Cô lật bìa sách, và làm lộ ra một trang giấy trắng, sạch sẽ, hơi ẩm ướt một chút, nhưng rất sạch sẽ. Một trang để viết lên trên đó, để lại một câu đề tặng.

Miriam do dự, nhưng cô cũng đi lấy một cây viết. Cây bút này, cô đã giữ trong tay khoảng ba phút, trong khi cô do dự chọn những từ ngữ tốt nhất để gửi đến người nhận. Cuối cùng cây bút di chuyển xuống dưới:

“To the lover” (Tạm dịch: “Gửi người yêu”)

Miriam viết, và sau đó ngừng lại.Cô xem xét kỹ lưỡng các nét bút mà cô đã vừa viết và dường như cảm thấy hài lòng khi những ký tự đó được viết rất gọn gàng. Cô đã rất giỏi trong việc viết tay Tiếng Anh ở trường học, những năm trước đây. Cô cuối xuống lần nữa và viết hoàn thành câu chữ:

“To the lover of books,

Love

Miriam”

(“Gửi người yêu sách,

Thân ái

Miriam”)

Cô dừng lại một lần nữa ở chữ “thân ái” (love), không chắc chắn rằng dùng từ “những lời chúc tốt đẹp” (regards) hay từ gì đó tương tự có thể tốt hơn hay không. Nhưng sau đó cô quyết định rằng với bất kỳ ai khác cô có thể có một chút do dự khi ký tên với chữ thân ái, nhưng hiện tại cô thấy không có lý do gì để mình không khi như vậy. Cô chờ cho đến khi mực đen khô đi, thổi nó cho nhanh khô với một chút lo lắng khi lần nữa cô nhận ra tiếng bước chân của Omar. Cô nghe anh ta nói gì đó với Robert và thấy cậu ta đi xuống dưới cầu thang.

Cô đóng cuốn sách lại và khéo léo bọc nó. Sau đó quấn hai lần dây quanh gói bưu kiện và cột lại một cách đảm bảo, và cô nhanh chóng viết lên địa chỉ ở thủ đô Pretoria.

“Robert”, cô gọi, và cậu bé đi ra từ phía nhà bếp. “Đây”, cô nói, đưa cái bưu kiện cho cậu ta. “Cầm lấy”. Và cô lấy từ trong túi của mình nhiều hơn số tiền mà cô nghĩ ở bưu điện người ta có thể thu và đưa cho cậu ta.

“Đem nó đến Bưu Điện vào ngày mai được chứ?”

“Vâng, thưa bà”. Cậu ta cẩn thận cầm lấy gói bưu kiện. “Nó là một cuốn sách ạ”.

“Đúng”, cô trả lời, và đây là lần đầu tiên cô cho phép bản thân mình cảm thấy do dự về cái ý tưởng này của cô. Cô nghe tiếng chân của của Omar trên cầu thang và chìa tay về phía Robert , bất ngờ muốn lấy cuốn sách trở lại. Tuy nhiên cậu ta nắm nó rất chặt, và thì thầm trấn an với cô rằng chắc chắn cậu ra sẽ gửi nó đi cho cô vào sáng mai. Và sau đó cậu ta đi ra, tập trung vào mớ rau củ trong bồn rửa, với cuốn sách đang nằm an toàn trong túi và Miriam quay lại phía cầu thang vừa đúng lúc để chào chồng mình.

Gói bưu kiện nằm trong Bưu Điện được hai tuần cho đến cuối cùng khi nó được thu thập cùng với thư. Quí cô Smith, người quản lý của bưu điện, đã buộc phải giữ nó ở bên ngoài cái hộp thư của Amina vì kích cỡ của nó, và cô đã giữ nó ở bên cạnh mình, được sử dụng để kê trưng bày mấy cái tem cao su, những cuốn sách và những cái phiếu giảm giá, và sau đó một khoảng thời gian thì nó đã không còn được nhận ra như là một cái gì đó để chờ đợi được giao nữa.

Cuối cùng cô ấy đã nhận ra nó, khi cô làm đổ một số mực đỏ lên lớp giấy gói bên ngoài của nó. Nó được bao bọc đơn giản bằng lớp giấy gói nâu mịn và được cột bởi dây cói, và khi cô ngăn chặn được cái dòng mực chảy ra, và thấy mấy dấu mực màu đỏ bị lan ra, cô cầm lấy cái gói hàng và lẩm bẩm với chính mình bằng tiếng Afrikaans rằng ở tuổi sáu mươi ba mà mình đã bị lú lẫn, thì còn cái gì để mà hi vọng trong suốt phần đời còn lại đây? Cô quay cái mặt sau của bưu kiện lại trong tay, nơi mà tàn nhang từ những ngày khi còn trẻ tuổi đã phơi nhiều nhất có thể dưới ánh mặt trời, và đặt nó ngay trước cửa sổ nhỏ nơi cô phục vụ khách hàng, bởi vì cô biết Jacob Williams sẽ lại đến đây hôm nay, và cuối cùng ông cũng sẽ có thể mang nó đi, gửi tới Amina.

Chỉ mới qua mười một giờ khi Jacob đến bưu điện để nhận thư cho quán cà phê. Ông đến đây hai lần một tuần, vào thứ Ba và thứ Sáu, và Amina để phần nhận thư cho ông, một phần bởi vì cô thường quên mất, một phần vì cô đã từng đến Bưu Điện với ông một lần, và cô nhận thấy rằng ông và Quí Cô Smith dường như rất thích thu trong việc thực hiện một số việc tán tỉnh nhẹ nhàng.

“Chào buổi sáng, thưa bà”, Jacob nói, nghiêng mũ để chào cô quản lý bưu điện. Cô ấy mỉm cười, và dường như đối với ông đôi mắt ấy nhiều màu xanh hơn bao giờ hết. Chúng như đèn neon kêu tanh tách, Jacob nhận ra khi quan sát cô ấy, không giống bất kì màu nào mà ông đã nhìn thấy trong tự nhiên.

“Chào buổi sáng, ông Williams”, cô trả lời và sau đó hỏi thăm sức khỏe của ông, và sau đó ông hỏi thăm sức khỏe của cô, họ trò chuyện một vài phút qua cái quầy giao dịch, trước khi một khách hàng khác lại đến. Người đàn ông đó thấy Jacob đứng dựa vào cái quầy Chỉ Dành Cho Người Da Trắng, anh ta mỉm cười với cô quản lý bưu điện, và anh ta cau mày. Jacob quay đi và di chuyển một cách thông minh tới cái quầy Dành Cho Người Da Màu sẽ được phục vụ và kiên nhẫn chờ đợi, trong khi Quí Cô Smith, nhân viên duy nhất của Bưu Điện xuất hiện vào mỗi buổi sáng, đang phục vụ cho người mới. Cô xé dãy tem mới rất hiệu quả, và phớt lờ cái nhìn chằm chằm từ khách hàng của mình.

“Bên ngoài trời ấm áp, phải không?” cô nói với người đàn ông, và cô nhìn anh ta qua cái gọng kính thép của mình, chú ý đến mồ hôi đang nhỏ xuống hai bên đầu anh ta. Bên trong Bưu Điện mát mẻ và yên tĩnh, chỉ có những âm thanh yên ả từ những con tem cao su của Quí Cô Smith vẫn vang vọng đều đặn trong không khí. Những cái cửa sổ được đặt cao trên mấy bức tường, và chúng thả xuống những cái hình vuông rộng đầy ánh mặt trời xuống căn phòng, nhưng khu vực xung quanh những cái quầy thì tối mờ mờ. Ở trên trần nhà, hai cái quạt quay nhẹ nhàng, tạo nên những từng cơn gió mềm mại xung quanh phía trên họ.

Người đàn ông dùng ống tay áo của mình để lau mồ hôi trên trán. “Bà cũng có thể nói như vậy”, anh ta lầm bầm trả lời, và ngước lên nhìn Jacob, người bây giờ đang nghiên cứu những cái tờ thông báo được dán trên tường ở phía ngoài. Quí Cô Smith đẩy mấy con tem qua phần trung tâm cái tấm kính chắn quầy, và nói với người đàn ông giá cả. Cô đưa tay ra chờ đợi, nhưng anh ta vẫn còn đang nhìn Jacob. Cô cảm thấy có một chút căng thẳng trên mấy cái đầu ngón tay của mình.

Hey, boy” (Boy = bồi, người phục vụ nam), anh ta gọi qua phía bên kia căn phòng trong một lúc, mặc dù là khách hàng duy nhất trong Bưu Điện, nhưng Jacob cũng không thể hiểu được là những từ đó đang hướng về ông.

“Hey!”, người đàn ông đó gọi một lần nữa. Jacob ngước lên nhìn và nhướng mày. “Lấy cho tôi một ít nước đi, bồi”, anh ta nói và hất đầu mình hướng về cái bình nước để ở góc tường phía sau. Jacob nhìn anh ta, và đưa tay lên vuốt đầu mình. Bởi vì bản chất, ông không phải là người quyết định nhanh chóng, và trong trường hợp đặc biệt này, ông thấy mình đột nhiên có rất nhiều điều cần phải suy nghĩ. Jacob có thể vui vẻ đi cả dặm chỉ để mang một ly nước cho một ai đó nếu hỏi ông một cách lịch sự, nhưng ông không có cách nào để trả lời cho cái điều thiếu tôn trọng mới được đưa ra. Bị gọi là “bồi” trong suốt hai mươi năm tuổi trẻ của mình đã là quá nhiều. Nhưng một lần nữa, ông ghét tạo ra những rắc rối. Và ông ghét phải làm như vậy trước mặt Quí Cô Smith.

“Đi đi”, người đàn ông đó hét lên. “Ông hiểu tiếng Anh mà, phải không?”

Jacob bị đốt cháy bởi cơn nóng giận và xấu hổ, nhưng cơ thể ông vẫn giữ được sự thoải mái. Ông trông có vẻ hoàn toàn thoải mái, mặc dù ông khó có thể làm cho bản thân mình như bình thường để nhìn Quí Cô Smith. Nhưng tuy nhiên, người quản lý bưu điện đã không nhìn ông. Cô ấy đã nhanh chóng di chuyển qua bên hông của cái quầy.

“Không cần phải làm như vậy”, cô nhấn mạnh với vị khách hàng. “Tôi là nhân viên ở đây, và tôi sẽ lấy nước cho cậu nếu như cậu không có khả năng tự lấy được”.

Quí Cô Smith đã trải qua hai mươi năm cuộc đời mình để giảng dạy Toán ở trường trung học và vẫn quen với việc xử lý những người trẻ tuổi hơn cô hay những học sinh lớn tuổi, hướng dẫn, khen ngợi hoặc khiển trách tùy theo những hoàn cảnh khác nhau. Cô nhanh nhẹn di chuyển đến chỗ cái bình nước, rót đầy cốc thủy tinh với nước ấm và đưa nó cho người đàn ông.

“Của cậu đây”, cô nói.

Anh ta trông đầy hoài nghi. “Có vấn đề gì với quý bà đây vậy? Bà chưa nghe đến việc phân biệt chủng tộc sao?”

Trong khoảnh khắc đó, khi nhìn vào gương mặt của anh ta, Quí Cô Smith thấy được gương mặt của đứa con trai duy nhất của mình, người bây giờ đang sống ở London. Thực sự chẳng có cái gì giống nhau giữa người đàn ông này và đứa con mà cô luôn tự hào, nhưng họ có thể cùng độ tuổi với nhau, và cô đột nhiên cảm thấy rùng mình trước đôi mắt đầy ngạc nhiên ở phía trước cô, dễ dàng cảm nhận sâu sắc rằng trí tuệ của giới trẻ đã bị giáo dục thành thiếu hiểu biết. Cô chớp mắt, và nhận ra người đàn ông vẫn đang nhìn chằm chằm vào mình làm cô nhớ đến câu hỏi của anh ta, những câu chữ kết thúc ở cuối câu vẫn còn vang vọng ở mấy cái góc cao trong căn phòng.

“Vâng, tôi đã nghe về việc phân biệt chủng tộc”, cô trả lời. “Và tôi không có quan tâm nhiều đến nó, cảm ơn cậu”.

Anh ta chẳng di chuyển để lấy cốc nước, vì vậy cô đặt nó xuống chỗ bình nước, và hỏi anh ta một lần nữa về số tiền mà anh ta nợ cho mấy con tem bưu chính của mình. Đột nhiên, anh ta moi mấy đồng xu từ trong túi của mình, phớt lờ lòng bàn tay đang chìa ra của Quí Cô Smith, và ném chúng vào cái quầy. Chúng tiếp đất với một tiếng loảng xoảng và phá vỡ không gian im lặng căng thẳng trong phòng, và một đồng tiền duy nhất đã rớt xuống sàn nhà, lăn xuống phía bên dưới của một cái ghế. Sau đó anh ta bỏ ra ngoài, dừng lại để lẩm bẩm một lời nguyền rủa về phía Jacob, người đang quì gối xuống, nhặt lấy đồng xu trước khi Quí Cô Smith buộc phải làm điều tương tự. Cánh cửa bị đóng ầm lại một cách bất thình lình.

Jacob chậm rãi đứng lên và đưa tiền cho Quí Cô Smith.

“Cảm ơn”, cô nhẹ nhàng nói, và nắm lấy tay ông một lúc lâu hơn cần thiết. “Tất cả chúng ta đều mất đi nhân phẩm và tình người ở xứ sở này phải không?” cô nói.

“Một vài người trong chúng ta thì đánh mất nó nhanh chóng hơn những người khác”, Jacob trả lời, và nhìn xuống đất.

“Ông có thể tin được điều thứ thứ hai”. Giọng cô trở nên mãnh liệt hơn. “Đó là những người như anh ta chính là những người mất mát nhiều nhất …”

“Có lẽ”.

Quí Cô Smith di chuyển nhanh chóng ra phía sau quầy và cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận ra gói bưu kiện nằm sát bên cạnh mình.

“Ông Williams”, cô gọi ông. “Ở đây tôi có một bưu kiện cho ông. Hay đúng hơn là cho cô gái trẻ Harjan”. Cô ngước lên với vẻ hối lỗi. “Tôi e rằng nó đã ở đây một khoảng thời gian khá dài. Một vài tuần. Tôi đã quên đưa nó cho ông. Đây này”.

Cô chìa gói hàng ra cho ông, và Jacob cảm thấy biết ơn với cái tông giọng giống như đang làm ăn của cô, đưa cho ông cái gì đó ông có thể nhìn để khỏi phải nhìn cô ấy. Ông cầm nó và xoay nó lại.

“Không có địa chỉ hồi âm”

“Không”, Quí Cô Smith đồng tình. “Có thể nó đến từ một tình nhân bí mật”, cô thêm vào, nhưng sau đó sực nhớ về những tin đồn mà cô đã nghe về cuộc sống cá nhân của Amina và cô đỏ mặt, một lần nữa trong thâm tâm cô nguyền rủa bản thân mình vì đã đãng trí và thiếu tế nhị.

“Tôi nghĩ tôi nên quay lại. Có việc cần phải làm”, Jacob nói, nhận thấy rằng sẽ tốt hơn cho cả hai khi kết thúc chuyến viếng thăm tại đây. Ông ngả mũ chào và bước qua cánh cửa.

“Buổi sáng tốt lành”, ông nói.

“Ông Williams!”, Jacob quay lại và chờ đợi, Quí Cô Smith do dự một chút, chưa có quyết định được là có nên xin lỗi về cái sự cố lúc nãy hay không.

“Tôi sẽ gặp lại bà sớm thôi”, ông nói, đọc được ánh nhìn của cô ấy. Cô quan sát ông qua đỉnh của cái gọng kiếng và đột nhiên mỉm cười, đôi mắt xanh của cô nheo lại ở hai khóe mắt.

“Hãy chắc chắn điều đó nhé”, cô nói và Jacob cười đáp lại trước khi đóng cửa.

Jacob quay lại quán cà phê và nhận thấy nó đã được lấp đầy đáng kể trong thời gian ông vắng mặt. Ánh mắt Amina bắt gặp ánh mắt ông với vẻ chào đón và ông giơ gói bưu kiện mà ông đang cầm trong tay phải của mình lên trước khi ông đặt nó xuống cái quầy.

Cô ấy đang nói chuyện với một số khách hàng, và trong khi chờ đợi để nhận yêu cầu của họ, cô liếc nhìn gói hàng. Nó trông có vẻ được gói bằng giấy nâu và được buộc lại, cô tự hỏi liệu có phải nó được mẹ cô gửi hay không.

“Mấy cái breedies của cô tươi chứ?” có ai đó hỏi cô, và cô đã nhìn chằm chằm họ và mỉm cười với họ một nụ cười nhuốm đầy bất ngờ.

“Tất cả thức ăn của chúng tôi luôn luôn tươi mới”, cô nói. Cô hoàn thành việc nhận gọi món, và sau đó nhặt lấy gói bưu kiện khi bước vào nhà bếp. Cô gọi tên các món ăn được yêu cầu qua cánh cửa hầm phục vụ hình chữ nhật và chờ đợi một tiếng nói to đáp lại để xác nhận là nó đã được nắm bắt. Dòng chữ viết tay trên mặt giấy, cô nhận ra nó không phải là của cha hay mẹ cô. Khi cô với tay lấy một con dao để cắt dây buộc, một cái ly rơi xuống, vỡ vụn tạo nên tiếng ầm ĩ trên nền sàn gỗ phía sau cái quầy. Tất cả mọi thứ im lặng trong chốc lát và sau đó mọi người bắt đầu trò chuyện trở lại.

Jacob đứng nhìn chằm chằm vào cái ly, tự hỏi làm sao nó có thể trượt ra khỏi bàn tay của mình. Amina quan sát ông ấy, và nhận ra rằng ông ấy chưa bao giờ làm vỡ bất kì thứ gì trước đây, thậm chí là một cái đĩa. Cô cũng nhận ra là bàn tay ông đang run rẩy, rất nhẹ. Một trong những cô hầu gái đã đứng đó sẵn sàng với cái chổi và hốt rác trong tay, chỉ trong vòng vài giây, tất cả mảnh thủy tinh vỡ đã được dọn sạch. Chẳng còn ai quan tâm đến nó nữa. Chỉ có Jacob vẫn còn đứng đó nhìn xuống sàn nhà.

“Chuyện gì vậy?” Amina xuất hiện bên cạnh ông.

“Nó bị trượt. Tôi đang lau chùi nó. Xin lỗi”.

“Không phải về cái ly”, Amina nhẹ nhàng nói. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

Jacob vẫn dùng miếng vải đang cầm trong tay để lau chùi khắp cái mặt quầy sáng bóng. “Không có gì”, ông trả lời. Cô để ông làm việc trong một lúc, và kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi ông nói chuyện lần nữa.

“Có một vài Afrikaaner trong Bưu Điện”, cuối cùng ông nói, né tránh ánh nhìn của cô. “Cậu ta gọi tôi là “bồi” và yêu cầu tôi mang cho cậu ta một ít nước. Một anh bạn trẻ”.

Amina cáu kỉnh thở dài. “Có vấn đề gì với thế giới những ngày này thế nhỉ?”

Jacob nhún vai. “Tôi không biết”.

“Đến đây và ngồi với tôi nào”, cô nói với ông. Jacob đặt miếng vải xuống và đi theo cô.

“Còn có khách đang chờ”, ông nói với cô. “Chúng ta nên giúp một tay”.

“Doris và Mary có thể xử lý được”, cô nói với ông, quan sát khi những người phục vụ chạy từ bàn này sang bàn khác.

Amina mang một cách cà phê từ gian hàng và đặt nó xuống phía trước Jacob, sau đó ngồi xuống.

“Tôi đang tự hỏi là có cái gì trong này?” cô hỏi, đặt gói bưu điện xuống chính giữa họ. Cô muốn cho ông thời gian để ổn định, lấy lại bản thân mình, vì vậy cô cắt mấy cái dây cột bằng con dao mỏng và mở lớp giấy gói. Một cuốn sách nằm trước mặt cô. Nó đã cũ, với cái bìa màu xanh dương và những chữ cái rất đẹp.

Little Woman” Jacob đọc mấy cái chữ cái lộn ngược. “Ai gửi nó thế nhỉ?”

“Tôi không biết”, Amina nói, và một chút háo hức, và khi cô ngước lên nhìn ông, cô mỉm cười.

“Không có thư à?” Jacob hỏi.

“Không có thư”.

“Vậy thì có thể ở bên trong được viết gì đó”, một lời đề nghị hết sức có ích từ ông.

Amina dường như có vẻ không thích và miễn cưỡng mở trang bìa cuốn sách ra. Jacob nhận thấy mắt cô sáng lên – và cô ấy gần như không thể ngồi yên.

“Jacob, đừng để những tên ngu ngốc ấy hạ gục ông. Họ chỉ là một lũ ngu ngốc”.

“Tôi biết”, ông nói. “Điều đó không cần phải bận tâm, nhưng tôi đã rất bối rối”.

Cô gật đầu. “Quí Cô Smith hả?”

“Phải”

Ông đứng dậy khỏi bàn, và mỉm cười với cô.

“Cảm ơn vì đã làm tôi dịu lại”, ông nói. “Và hãy tận hưởng cuốn sách của cô nhé”.

Ông bước đi, đến khu vực có một nhóm khách đang chờ ở ngoài cửa ra vào. Khi ông sắp xếp chỗ cho họ, ông quay lại và thấy Amina vẫn còn đang ngồi ở gian hàng, đọc phía bên trong của cuốn sách và tự mỉm cười một mình.

Leave a comment